Mất răng là gì? Các công bố khoa học về Mất răng
Mất răng là tình trạng khi một hoặc nhiều răng bị rụng hoặc bị mất hoàn toàn khỏi hàm răng. Tình trạng này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như chấn...
Mất răng là tình trạng khi một hoặc nhiều răng bị rụng hoặc bị mất hoàn toàn khỏi hàm răng. Tình trạng này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như chấn thương, bệnh lý răng lợi, lão hóa, cắt răng hay mất răng do lý do di truyền. Mất răng có thể gây ra những vấn đề về chức năng như khó khăn khi nhai, nói chuyện hay ảnh hưởng đến thẩm mỹ cũng như tự tin của người mất răng.
Mất răng có thể được chia thành hai loại: mất răng cơ học và mất răng biến chứng.
1. Mất răng cơ học: Đây là trường hợp khi một hoặc nhiều răng bị rụng hoặc bị mất hoàn toàn do các nguyên nhân như chấn thương, tai nạn, hoặc cắt răng. Trong trường hợp chấn thương, răng có thể bị lắc hoặc di chuyển khỏi vị trí gốc trong hàm răng. Nếu không được điều trị kịp thời, răng có thể bị rụng hoàn toàn. Cắt răng là trường hợp những răng đã bị hư hỏng nặng hoặc bị nhiễm trùng đến mức không thể cứu chữa được, nên phải được lấy đi để phòng ngừa những tác động xấu đến răng và mô mềm xung quanh.
2. Mất răng biến chứng: Đây là trường hợp mất răng do các nguyên nhân bệnh lý hoặc lão hóa. Ví dụ, bệnh lý nha khoa như bệnh nha chu (bệnh lợi), viêm nướu, viêm tụy răng hay sâu răng tiến triển mạnh và không được điều trị sẽ dẫn đến mất răng. Lão hóa cũng có thể gây mất răng khi xương hàm trở nên yếu dần theo thời gian và không còn đủ sức mạnh để giữ răng trong vị trí.
Mất răng có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng như khó khăn khi nhai thức ăn, nói chuyện không tự nhiên, ảnh hưởng đến hàm răng khác và cảm giác tự ti về thẩm mỹ. Do đó, điều trị mất răng rất quan trọng để khắc phục các vấn đề trên, phục hình hàm răng và khôi phục chức năng của răng.
Khi mất răng, không chỉ gây ảnh hưởng đến chức năng nhai, nói chuyện và thẩm mỹ, mà còn có thể gây những vấn đề khác trong hàm răng. Dưới đây là một số chi tiết hơn về những vấn đề liên quan đến mất răng:
1. Gãy cắn: Khi mất một răng, áp lực khi nhai thức ăn không được phân bố đều trong hàm răng. Điều này có thể dẫn đến một hay nhiều răng còn lại chịu áp lực cao hơn, dẫn đến tình trạng gãy cắn. Đồng thời, việc không có răng cạnh tranh cũng có thể gây gia tăng áp lực lên các răng khác, gây ra mài mòn và hao mòn răng.
2. Dị vị răng: Khi mất một hoặc nhiều răng, răng còn lại có thể di chuyển ra khỏi vị trí gốc của chúng. Điều này gây ra sự thay đổi trong kết cấu hàm răng và gây ra dị vị răng. Việc răng di chuyển có thể làm thay đổi cấu trúc cắn và gây ra sự mất cân bằng trong khớp cắn của hàm răng.
3. Mất khối xương hàm: Răng làm việc như một kích thích vật lý cho xương hàm. Khi mất răng, mất đi kích thích này, xương hàm bắt đầu mất dần đi. Điều này gây ra suy giảm khối lượng xương và mất đi sự hỗ trợ để giữ các răng còn lại vững chắc. Điều này có thể dẫn đến hiện tượng sụt lún xương và hình dạng hàm răng thay đổi.
4. Mất tự tin và tác động tâm lý: Mất răng có thể ảnh hưởng đến tự tin của một người. Có thể khiến họ cảm thấy xấu hổ hoặc tự ti trong giao tiếp xã hội. Tình trạng này có thể gây tác động tâm lý tiêu cực, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và tạo ra rào cản trong việc tham gia các hoạt động xã hội.
Để khắc phục tình trạng mất răng, có nhiều phương pháp điều trị như cấy ghép Implant, chỉnh nha hoặc sử dụng các loại răng giả (bọc răng, gắn cầu răng, bán cầu răng). Quá trình điều trị sẽ phụ thuộc vào tình trạng cụ thể của từng bệnh nhân và sự tư vấn của bác sĩ nha khoa.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "mất răng":
Một hàm mật độ mới (DF) thuộc loại xấp xỉ gradient tổng quát (GGA) cho các ứng dụng hóa học chung có tên là B97‐D được đề xuất. Nó dựa trên phương án chuỗi lũy thừa của Becke từ năm 1997 và được tham số hóa rõ ràng bằng cách bao gồm các hiệu chỉnh phân tán cặp nguyên tử dạng triệt tiêu
Nhiều hệ thống vật liệu hiện đang được xem xét như là những ứng cử viên tiềm năng để thay thế SiO2 làm vật liệu điện môi cổng cho công nghệ bán dẫn metal-oxide–semiconductor (CMOS) dưới 0,1 μm. Việc xem xét hệ thống các tính chất cần thiết của điện môi cổng cho thấy rằng các hướng dẫn chính để chọn một chất thay thế điện môi cổng là (a) độ điện môi, khoảng cách năng lượng, và sự liên kết băng với silicon, (b) tính ổn định nhiệt động học, (c) hình thái lớp phim, (d) chất lượng giao diện, (e) sự tương thích với các vật liệu hiện tại hoặc dự kiến sẽ được sử dụng trong quá trình chế tạo các thiết bị CMOS, (f) khả năng tương thích quy trình, và (g) độ tin cậy. Nhiều loại điện môi có vẻ thuận lợi trong một số lĩnh vực này, nhưng rất ít vật liệu hứa hẹn đáp ứng tất cả các hướng dẫn này. Một bài tổng quan về công việc hiện tại và tài liệu trong lĩnh vực điện môi cổng thay thế được đưa ra. Dựa trên các kết quả đã báo cáo và những cân nhắc cơ bản, các hệ thống vật liệu giả nhị phân cung cấp sự linh hoạt lớn và cho thấy triển vọng nhất trong việc tích hợp thành công vào các điều kiện chế biến dự kiến cho các công nghệ CMOS tương lai, đặc biệt do xu hướng của chúng trong việc hình thành ở giao diện với Si (ví dụ: silicat). Những hệ thống giả nhị phân này cũng cho phép sử dụng các vật liệu có hệ số điện môi cao khác bằng cách đóng vai trò như một lớp điện môi cao ở giao diện. Mặc dù công việc vẫn đang tiếp diễn, nhưng còn nhiều nghiên cứu vẫn cần thiết, vì rõ ràng rằng bất kỳ vật liệu nào muốn thay thế SiO2 làm điện môi cổng đều phải đối mặt với một thách thức lớn. Các yêu cầu về khả năng tương thích tích hợp quy trình đòi hỏi rất cao, và bất kỳ ứng cử viên nghiêm túc nào cũng chỉ có thể xuất hiện thông qua việc điều tra tiếp tục, sâu rộng.
Trong bài báo này, các phương pháp kernel cho ước lượng không tham số của phân bố sử dụng từ một mẫu ngẫu nhiên các quan sát vị trí đã được thực hiện trên một động vật trong phạm vi sinh sống của nó được mô tả. Chúng có hình thức linh hoạt, do đó có thể được sử dụng trong các trường hợp mà các mô hình tham số đơn giản được cho là không phù hợp hoặc khó để xác định. Hai ví dụ được đưa ra để minh họa các phương pháp kernel cố định và thích ứng trong phân tích dữ liệu cũng như để so sánh các phương pháp này. Nhiều lựa chọn khác nhau cho tham số làm mượt được sử dụng trong các phương pháp kernel cũng được thảo luận. Vì các phương pháp kernel cung cấp các cách tiếp cận thay thế cho các phương pháp biến đổi Fourier của Anderson (1982), một số so sánh cũng được thực hiện.
A general scheme for systematically modeling long-range corrected (LC) hybrid density functionals is proposed. Our resulting two LC hybrid functionals are shown to be accurate in thermochemistry, kinetics, and noncovalent interactions, when compared with common hybrid density functionals. The qualitative failures of the commonly used hybrid density functionals in some “difficult problems,” such as dissociation of symmetric radical cations and long-range charge-transfer excitations, are significantly reduced by the present LC hybrid density functionals.
1. Một phương pháp mới đã được phát triển để đo lường tổng khả năng chống oxy hóa của các dịch thể cơ thể và dung dịch thuốc, dựa trên độ hấp thụ của cation gốc ABTS*+.
2. Một phương pháp tự động để sử dụng trên máy phân tích ly tâm, cũng như một phương pháp thủ công, đã được mô tả.
3. Quy trình này đã được áp dụng cho các hợp chất chống oxy hóa sinh lý và thuốc quét gốc tự do, và một bảng xếp hạng khả năng chống oxy hóa đã được thiết lập dựa trên khả năng phản ứng của chúng so với tiêu chuẩn Trolox 1.0 mmol/l.
4. Khả năng chống oxy hóa tương đương với Trolox của huyết tương từ một quần thể tham chiếu người lớn đã được đo lường, và phương pháp đã được tối ưu hóa và xác thực.
5. Phương pháp này đã được áp dụng để điều tra tổng khả năng chống oxy hóa của huyết tương ở trẻ sơ sinh và cách mà khả năng này có thể bị suy giảm trong tình trạng sinh non.
Hai phương pháp đã được sử dụng để chứng minh sự hiện diện của các kháng nguyên đặc hiệu tumor trong các khối u tuyến (adenocarcinoma) của đại tràng người: (a) thỏ được tiêm chủng bằng các chiết xuất từ các khối u đại tràng tổng hợp, và huyết thanh kháng ung thư được tạo ra đã được hấp thụ bằng chiết xuất tổng hợp từ đại tràng người bình thường và các thành phần máu của người; (b) thỏ mới sinh được làm miễn dịch dung nạp với mô đại tràng bình thường ngay từ khi sinh, và sau đó được tiêm chủng với chất liệu khối u tổng hợp trong đời sống trưởng thành. Mô bình thường và mô khối u được lấy từ cùng một người hiến tặng nhằm tránh sự hiểu nhầm về kết quả do sự khác biệt về kháng nguyên đặc hiệu của từng cá nhân.
Huyết thanh chuẩn bị bởi cả hai phương pháp đã được thử nghiệm đối với các kháng nguyên bình thường và khối u bằng các kỹ thuật khuếch tán gel agar, điện di miễn dịch, ngưng kết hồng cầu, PCA và miễn dịch huỳnh quang. Hoạt tính kháng thể rõ rệt nhắm vào ít nhất hai kháng nguyên đặc hiệu tumor chất lượng đã được phát hiện trong huyết thanh được chuẩn bị bởi cả hai phương pháp và ít nhất hai kháng nguyên khối u bổ sung đã được phát hiện độc quyền trong huyết thanh được chuẩn bị theo kỹ thuật dung nạp. Liệu các kháng nguyên bổ sung này có khác biệt chất lượng so với kháng nguyên mô bình thường, hoặc chỉ tồn tại trong mô khối u với nồng độ cao hơn so với mô bình thường vẫn chưa được xác định. Hơn nữa, đã chỉ ra rằng các kháng thể đặc hiệu tumor không nhắm vào các chất bẩn vi khuẩn hoặc vào nồng độ cao bất thường của fibrin có trong nhiều mô u ác tính.
Các kết quả từ những nghiên cứu này đã kết luận rằng các chiết xuất khối u tổng hợp chứa các kháng nguyên đặc hiệu tumor không có trong mô đại tràng bình thường. Các kháng nguyên đặc hiệu tumor giống hệt cũng đã được chứng minh trong một số khối u tuyến đại tràng cá nhân thu được từ các người hiến tặng khác nhau.
Ma trận hữu cơ của ngà răng, với collagen loại I là thành phần chính, bị lộ ra sau quá trình khử khoáng trong các trường hợp sâu răng, ăn mòn hoặc xử lý acid trong quá trình điều trị phục hồi bằng composite dính. Ma trận được lộ ra này có xu hướng bị phân hủy thủy phân chậm bởi các enzym collagenolytic nội sinh, các metalloproteinase trong ma trận (MMPs) và các cathepsin cysteine từ cơ thể. Trong bài báo này, chúng tôi tổng hợp các phát hiện gần đây cho thấy việc ức chế các enzym collagenolytic trong nước bọt hoặc trong ngà răng có thể cung cấp các phương tiện phòng ngừa chống lại sự tiến triển của sâu răng hoặc ăn mòn, tương tự như cách mà chúng đã được chứng minh là giữ được tính toàn vẹn và cải thiện độ bền của sự liên kết giữa vật liệu composite resin và ngà răng. Bài báo này cũng đưa ra luận điểm rằng ma trận hữu cơ trong ngà bị ảnh hưởng bởi sâu răng có thể không được bảo tồn nguyên vẹn như đã được xem xét trước đây. Trong ngà răng được khử khoáng một phần, các MMPs và các cathepsin cysteine có khả năng cắt đứt các đầu không xoắn của các phân tử collagen (telopeptide) có thể dẫn đến sự mất dần các khoảng trống giữa các phân tử. Điều này sẽ nghiêm trọng làm suy giảm khả năng của ma trận trong việc tái khoáng hóa nội bào, điều mà được coi là cần thiết trong việc phục hồi các tính chất cơ học của ngà răng. Các dữ liệu chi tiết hơn về các enzym có trách nhiệm và chức năng chi tiết của chúng trong các tình trạng phá hủy ngà răng có thể không chỉ giúp tìm ra các phương pháp phòng ngừa mới và tốt hơn, mà việc bảo tồn tốt hơn ma trận collagenous của ngà răng đã khử khoáng cũng có thể tạo điều kiện cho việc tái khoáng sinh học thực sự, từ đó phục hồi tốt hơn tính toàn vẹn cấu trúc và các tính chất cơ học của răng.
The era of big data is coming, and evidence-based medicine is attracting increasing attention to improve decision making in medical practice via integrating evidence from well designed and conducted clinical research. Meta-analysis is a statistical technique widely used in evidence-based medicine for analytically combining the findings from independent clinical trials to provide an overall estimation of a treatment effectiveness. The sample mean and standard deviation are two commonly used statistics in meta-analysis but some trials use the median, the minimum and maximum values, or sometimes the first and third quartiles to report the results. Thus, to pool results in a consistent format, researchers need to transform those information back to the sample mean and standard deviation. In this article, we investigate the optimal estimation of the sample mean for meta-analysis from both theoretical and empirical perspectives. A major drawback in the literature is that the sample size, needless to say its importance, is either ignored or used in a stepwise but somewhat arbitrary manner, e.g. the famous method proposed by Hozo et al. We solve this issue by incorporating the sample size in a smoothly changing weight in the estimators to reach the optimal estimation. Our proposed estimators not only improve the existing ones significantly but also share the same virtue of the simplicity. The real data application indicates that our proposed estimators are capable to serve as “rules of thumb” and will be widely applied in evidence-based medicine.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10